Sở dụng thường thấy Code cave

Khái niệm về code cave này thường hay được giới hacker và giới reverse engineering vận dụng để thực thị mã tùy ý trong chương trình đã biên dịch. Đây có thể là phương pháp có lợi để chỉnh sửa 'chương trình đã biên dịch' ví dụ như để gắn thêm hộp thoại, chỉnh sửa biến số hay thậm chí là vô hiệu hóa phần kiểm tra bản quyền phần mềm. Thường là bằng cách sử dụng 'chỉ thị gọi' (CALL) thường thấy trong nhiều kiến trúc CPU, luồng chương trình sẽ nhảy vào subroutine mới nằm trong code cave. Sau khi thực thi subroutine xong thì có thể sử dụng 'chỉ thị trả về' (RET) để nhảy ra khỏi code cave và quay trở lại phần code ban đầu. Như vậy cho phép chương trình hiện tồn nhảy vào phần code mới thêm mà không gây ra thay đổi đáng kể lên luồng chương trình vốn có.